Bàn tròn trực tuyến
June 30, 2015

Bàn tròn trực tuyến

June 30, 2015

Nguồn: https://vietnamnet.vn

PHẦN 1: NHÓM LỢI ÍCH VÀ SỨC Ỳ CỦA BỘ MÁY

"Để thực thi được cải cách đòi hỏi quyết tâm chính trị, và một hình thức liên minh các lực lượng muốn thúc đẩy cải cách" – Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyễn Xuân Thành.

LTS: Trong suốt thời gian qua, nhiều tiếng nói mạnh mẽ khẳng định sự cần thiết của cải cách thể chế đã được cất lên từ những người nắm giữ trọng trách trong Đảng, trong Quốc hội và Chính phủ. Như nhiều chuyên gia nhận định: nếu tập hợp đầy đủ các tuyên bố cải cách của các nhà lãnh đạo cấp cao thời gian qua đã đủ hình thành một chương trình cải cách toàn diện. Tuy nhiên, ngay chính các nhà lãnh đạo cấp cao cũng phải thừa nhận cải cách còn rất chậm chạp.

VietNamNet thực hiện cuộc bàn tròn về cải cách thể chế với PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa, TS. Huỳnh Thế Du và ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright nhằm tìm ra nguyên nhân và giải pháp khả thi cho thực trạng này. Đây cũng là nhóm tác giả tham gia thực hiện báo cáo tư vấn chính sách cho Chính phủ Việt Nam mới đây mang tựa đề: "Cải cách thể chế ở Việt Nam – từ tầm nhìn tới thực tiễn". Báo cáo này được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Đại học Harvard, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc và Chính phủ Việt Nam.

Dự án vô bổ vẫn cố làm

Nhà báo Việt Lâm: Khi chúng ta đang bàn về cải cách thể chế thì ngay mới đây thôi, một loạt sự vụ xảy ra khiến dư luận bất bình. Nào là lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc bỏ 300 tỷ xây Văn Miếu trong khi biết công trình thiết yếu về dân sinh như y tế, giáo dục đang khát vốn. Điều đáng nói hơn cả là một công trình to như vậy đã lẳng lặng được xây cất trong 5 năm, đến khi khánh thành rồi thì báo chí, người dân mới được biết. Rồi lãnh đạo Đồng Nai đồng ý cho một nhà đầu tư vào lấp một phần sông Đồng Nai làm dự án. Hay Hà Nội chặt bỏ cây xanh. Những câu chuyện vừa qua nói lên điều gì?

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa: Ví dụ thứ nhất nói tới chi tiêu công. Một đất nước có thể kém phát triển và chi phí phát triển tăng cao nếu đầu tư công bị thiên lệch, có lợi cho thiểu số, trải chi phí cho số đông dân chúng. Bất kỳ một đầu tư công nào cũng dẫn đến những xung đột, lợi ích khác nhau, người được hưởng lợi và người không được hưởng lợi. Những cuộc tranh luận như vậy đáng lẽ phải diễn ra ở những cơ quan dân cử, ví dụ Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, phải được tham vấn người dân thông qua những kênh truyền thông. Qua đó cho thấy việc thảo luận về đầu tư công ở Việt Nam, kiểm soát đầu tư công của cơ quan dân cử, sự tham gia giám sát của báo chí chưa hiệu quả.

Ví dụ thứ hai ở Đồng Nai nói đến chi phí, phí tổn của phát triển. Một dòng sông nếu lấp đi thành khu đô thị chắc cũng có lợi cho một số người nhưng cũng kéo theo hệ quả lâu dài cho tỉnh Đồng Nai và những tỉnh lân cận, gây ra những phí tổn không thể bù đắp cho thế hệ mai sau. Vì vậy, phát triển của VN nếu nhìn từ một tỉnh, một quốc gia xuất hiện những tổn hại về môi trường và những chi phí khác. Những cuộc thảo luận giữa những nhóm lợi ích đó cũng cần diễn ra. Nếu càng minh bạch, càng có những kênh thảo luận đa chiều thì rủi ro lựa chọn những dự án kém đó càng ít đi.

Vụ chặt cây ở Hà Nội là một hành vi của chính quyền. Dưới sự cho phép của chính quyền, những người thợ mới chặt cây. Có điều hành vi chặt cây giữa mùa hè nóng bỏng như thế dường như đã không được lý giải một cách thỏa đáng về kinh tế, xã hội, văn hóa thậm chí tâm linh. Nó cho thấy những hành động của chính quyền có khi cũng chưa được cân nhắc kỹ, có khi có lợi cho một số người nhưng cũng gây tổn hại cho cả cộng đồng.

Ở một khía cạnh khác của câu chuyện, khi dân chúng nhìn thấy những hành vi đó, ngay lập tức họ có thái độ và cách tổ chức bày tỏ sự phẫn nộ. Họ biết cách tập hợp lực lượng để buộc chính quyền chịu trách nhiệm, ít nhất là đối thoại rồi dừng lại những hành vi chưa thỏa đáng đó.

Ba ví dụ vừa nêu có thể khái quát bối cảnh VN hiện nay. Đó là những cuộc thảo luận về mô hình tăng trưởng và ai được hưởng lợi từ phát triển kinh tế hiện nay, thứ hai là những thay đổi trong nhận thức của người dân, đòi hỏi chính quyền phải đối thoại. Tất cả những cái đó là bối cảnh cải cách thể chế mới cần được thảo luận kỹ hơn.

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Những câu chuyện xảy ra vừa qua cho thấy hai điều: Thứ nhất, phản ứng của người dân, sức ép của xã hội đối với những quyết định chính sách, những dự án đầu tư sai rành rành được thể hiện rất rõ. Có thể anh vẫn cố làm, nhưng cũng không thể đặt vào thế sự đã rồi mà buộc phải điều chỉnh. Việc ra quyết định chính sách không phải cứ làm đúng theo quy trình, theo khung luật pháp hiện hữu là được. Những quyết sách sai rõ ra đó thì lập tức anh sẽ chịu phản ứng xã hội.

Ở một khía cạnh nhẹ nhàng hơn, có những chính sách không phải sai rành rành mà cần thời gian thẩm định, đặc biệt là những dự án mà chưa chắc lợi ích hay chi phí sẽ nhiều hơn. Ngày xưa, những dự án này nhà nước quyết là được. Nhưng hiện nay, những dự án đó khi được đưa ra dư luận đều gây tranh cãi, từ những siêu dự án như sân bay Long Thành đến những dự án nhỏ chuyển đổi từ công sang tư.

Theo nhìn nhận của tôi, những ví dụ này cho thấy những chuyển động tích cực, rằng sức ép xã hội buộc những người cầm cân nảy mực phải có sự điều chỉnh, xem xét lại những quyết sách không hợp lý. Đấy là những chuyện cách đây 10 năm chúng ta chưa thấy, cách đây 5 năm mới bắt đầu xuất hiện và một năm trở lại đây thì xuất hiện ngày càng nhiều. Điều đó phản ánh thực tế là sức ép, sự phản biện xã hội đối với chính sách ngày càng mạnh mẽ hơn. Đứng trước sức ép đấy, nếu anh không có phản ứng, hay phản ứng thụ động thì chỉ làm cho bất bình tăng lên. Bởi vậy, có lẽ đã đến thời điểm hệ thống cần phải có những cải cách sâu rộng hơn.

TS. Huỳnh Thế Du: Câu cửa miệng của hầu hết những người làm trong khu vực công là nhà nước của dân do dân vì dân, nhưng những ví dụ vừa nêu cho thấy việc thực thi những khái niệm này đang gặp trục trặc.

Nếu nhiều người dân được hưởng lợi thì họ không phản ứng quyết liệt như vậy. Có vẻ như có những dự án rất vô bổ nhìn ở khía cạnh có ích cho số đông, cho kinh tế-xã hội địa phương nhưng vẫn có rất nhiều người thích làm.

Vấn đề đặt ra ở đây là phải làm sao cho những quyết định chi tiêu công hay những quyết định quan trọng, ảnh hưởng tới số đông phải chịu sự giám sát, của số đông. Nói cách khác, người dân phải có quyền, có tiếng nói. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục diễn ra, tôi e rằng sự bất bình, mất niềm tin sẽ ngày càng tăng.

Thể chế tốt sẽ trừng phạt người quyết sai

Việt Lâm: Những câu chuyện mà chúng ta vừa nhắc tới ở trên không phải là câu chuyện cá biệt của một địa phương nào. Vậy vì sao những sự cố như vậy vẫn lặp lại?

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Những quyết định về mặt chính sách của nhà nước nhiều khi không đơn giản. Nhiều khi chúng ta hay tự hỏi tại sao dở như thế mà lại làm. Nhưng lúc người ta quyết định, người ta không nghĩ là nó dở, cũng không cảm nhận được phản ứng của xã hội như thế nào, ngoại trừ những trường hợp có động cơ cá nhân.

Nếu so sánh với các nước khác, kể cả những nước đã phát triển như Mỹ, chúng ta sẽ thấy những dự án đầu tư công không dẫn đến đâu cũng hay xảy ra lặp đi lặp lại. Vấn đề là một hệ thống thể chế tốt sẽ có sự trừng phạt đối với những quyết định ấy.

Khi có sự phản biện của xã hội thì các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu độc lập sẽ có những phân tích khách quan để chỉ ra đấy là quyết định sai, chỉ rõ ra chi phí, tổn thất mà quyết định anh tạo ra lớn hơn nhiều lợi ích cho một nhóm nào đấy. Khi sự việc được phân tích rõ ràng thì một hệ thống thể chế tốt sẽ có hình phạt đối với tổ chức, cá nhân đưa ra quyết định đấy.

Lý do người ta làm được việc ấy, thứ nhất là hệ thống thể chế cho phép, thứ hai là anh có thể quy trách nhiệm đến một tổ chức cụ thể, một cá nhân cụ thể. Như vậy nó sẽ tạo ra những tiền lệ. Sau đó người ta nhìn vào đấy để biết anh làm như vậy thì sẽ bị trừng phạt. Thể chế sẽ trừng phạt anh chứ không phải thể chế sẽ bảo vệ anh dù anh làm sai.

Ông Nguyễn Xuân Thành - Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Lợi ích cá nhân, trách nhiệm tập thể

Việt Lâm: Nhân nói chuyện trừng phạt, vấn đề ở đây là để chỉ đích danh cá nhân nào chịu trách nhiệm dường như rất khó. Ví dụ như vụ chặt cây xanh ở Hà Nội, người đứng đầu Chính phủ yêu cầu truy đến cùng cá nhân nào chịu trách nhiệm nhưng đến báo cáo kết luận thì dường như trách nhiệm lại thuộc về tập thể.

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa: Trách nhiệm giải trình là gì? Trách nhiệm giải trình nghĩa là trước dân chúng anh phải cắt nghĩa được lý do gì anh quyết định hành vi đó, chính sách đó. Ví dụ anh bảo trông cây vàng tâm, hay cây mỡ nào đó, thì anh phải giải thích cho dân chúng hiểu.

Thứ hai, giả sử chính sách đó sai thì anh phải chịu trách nhiệm. Trách nhiệm ở đây nghĩa là phải có người chịu hậu quả bất lợi. Đó có thể là trách nhiệm chính trị, ví dụ như anh mất đi sự tín nhiệm của dân chúng, anh phải từ chức. Trách nhiệm về hành chính nghĩa là anh phải bị khiển trách, kỷ luật, thậm chí giáng chức, đuổi việc. Trách nhiệm về vật chất thì anh phải đền bù,... những thứ đó người ta gọi là trách nhiệm giải trình – một cơ chế ràng buộc những người nắm trong tay quyền lực công phải chịu trách nhiệm trước cử tri.

Quay trở lại vụ chặt cây xanh Hà Nội. Hiện nay chúng ta có một cơ chế không rõ ràng về trách nhiệm giải trình, bắt đầu từ chỗ người đưa ra chính sách không phải giải thích. Thậm chí người ta còn không nghiên cứu kỹ một trách nhiệm nữa là con đường Nguyễn Trãi nối Hà Nội với Hà Đông thậm chí bị chặt trụi hết cây. Sau này, người ta mới phát hiện ra trong hồ sơ nhà thầu làm tàu điện trên cao không hề có đánh giá tác động môi trường. Đáng ra, nếu anh bắt buộc nhà thầu có đánh giá tác động môi trường thì có khi người dân đã biết để yêu cầu nhà thầu bảo vệ những cây xanh đó.

Giả sử làm sai rồi thì phải có một cơ chế cá thể hoá ai chịu trách nhiệm. Hiện nay, dường như cơ chế của chúng ta quá nhiều người quyết nên mới sinh ra quá nhiều cuộc họp. Cán bộ đi họp nhiều đến mức mỗi bộ có đến 5 -6 ông thứ trưởng chủ yếu để đi họp. Lý do phải đi họp nhiều là các cuộc họp đưa ra quyết định của tập thể. Quyết định tập thể sẽ góp phần che dấu đi trách nhiệm của người chịu quyết định. Nói tóm lại, bệnh họp nhiều bắt nguồn từ một cơ chế không muốn ai chịu trách nhiệm. Cơ chế đó có lợi cho từng cá thể nên không ai muốn thay đổi cả.

Muốn tiến tới trách nhiệm giải trình rõ hơn, ngoài những ý như anh Thành nói thì cần phải làm rõ trách nhiệm cá nhân đứng đầu. Trở lại trường hợp chặt cây sai, nói một cách thẳng thắn thì người chịu trách nhiệm chính trị phải là ông lãnh đạo chính quyền bởi ông chịu trách nhiệm chính trị cho những hoạt động diễn ra trong khuôn khổ thành phố; người chịu trách nhiệm hành chính ví dụ người trình văn bản đó là ông giám đốc sở xây dựng nếu trong phạm vi của ông ta vì ông ta chỉ chuyên môn giúp việc cho chính quyền chứ ông ta không có quyền quyết định; còn nếu trách nhiệm hình sự ai lợi dụng việc chặt cây đó để bán lấy tiền thì phải chịu trách nhiệm cá nhân của từng người trước pháp luật. Cơ chế chịu trách nhiệm như thế ở VN một là chưa được nghiên cứu rõ; hai là quy định còn hết sức chung chung và thứ ba là có lợi cho những người trong bộ máy nên nó nhùng nhằng, khó thay đổi.

TS. Huỳnh Thế Du: Trong các nghiên cứu về lựa chọn các quyết định tập thể chỉ ra rằng trong tập thể, tất cả mọi người đều suy nghĩ hợp lý vì lợi ích của mình và thường đưa ra các kết quả phi lý về mặt tập thể, có nghĩa là những thứ sai rành rành vẫn xảy ra.

Câu chuyện ở đây là trách nhiệm giải trình. Chúng ta đều thấy rằng với mỗi công chức, mục tiêu quan trọng nhất là thăng tiến. Vấn đề là trong hệ thống chúng ta, việc thăng tiến là do cấp trên quyết định chứ không phải do người dân hay đối tượng tôi trực tiếp phục vụ quyết định. Trong khi ở những xã hội phát triển thì những người tôi phục vụ có quyền quyết định vị trí của tôi trong nhiệm kỳ tới.

Các cụ ta có câu " ăn cây nào rào cây ấy". Cách đây mấy năm, khi xảy ra sự kiện Đoàn Văn Vươn, chúng ta thấy phát biểu của một lãnh đạo Hải Phòng chỉ chăm chăm làm sao bảo vệ cấp trên của mình, bất chấp dư luận. Cái cơ chế đó đảo ngược hết hành vi của tôi, tôi sẽ cố gắng bao biện, đùn đẩy cho trách nhiệm tập thể. Đương nhiên, tôi có lợi ích cá nhân trong trách nhiệm tập thể. Thành thử dẫn tới hiện tượng có những quyết định trong khu vực công dường như chỉ có lợi cho một thiểu số nào đó, trong khi gây tổn hại cho toàn xã hội.

TS. Huỳnh Thế Du (Đại học Harvard)

Sức ỳ bộ máy và sự chống đối của nhóm lợi ích

Việt Lâm: Những vấn đề chúng ta vừa phân tích ở trên tôi tin là nhiều người trong bộ máy đã cảm nhận thấy. Bằng chứng là thời gian qua, có nhiều tiếng nói trong hệ thống lên tiếng về cải cách thể chế. Chẳng hạn, người đứng đầu Chính phủ đã nhiều lần nêu thông điệp rõ ràng về sự cấp bách phải cải cách thể chế cũng như vạch ra đường hướng cải cách. Một số bộ trưởng cũng đăng đàn đề cập đến chủ đề này. Nhưng tại sao đã có những tiếng nói cải cách mạnh mẽ từ những người nắm giữ trọng trách mà cải cách vẫn chậm chạp như thế, nhọc nhằn như thế?

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Cần hiểu rằng từ việc đưa ra được những tuyên bố, chuyển nó thành văn bản rồi đến thực thi các chương trình cải cách là cả một quá trình. Quá trình ấy bắt đầu bằng việc anh nhìn nhận được những yếu kém, bất cập đã xảy ra trong thời gian qua và đánh giá được hậu quả của những bất cập đó gây ra cho nền kinh tế. Rồi đi đến một bước nữa là anh cảm nhận được nếu như không thay đổi thì sự bất bình của dân chúng ngày càng gia tăng. Tiếp theo là một quá trình đấu tranh ý thức hệ, anh phải thay đổi cách nhìn, điều chỉnh lại cách suy nghĩ trước đây. Từ đó, anh đưa ra được các tuyên bố, rồi từ tuyên bố ấy, trải qua một cuộc đấu tranh ý thức hệ nữa mới đưa được thành văn bản, chính sách. Rồi khi chính sách đi vào thực hiện có thể gặp phải hai lực cản: một là sức ỳ của bộ máy, hai là phản ứng chống đối của các nhóm bị thiệt hại.

Qua quan sát của chúng tôi, đến thời điểm này đã có một sự chuyển đổi trong nhận thức, trong ý thức hệ. Nhiều người trong bộ máy đã cảm nhận được những yếu kém, bất cập, có thể chưa đến mức không cải cách thì hậu quả lớn nhưng họ cũng cảm nhận được rằng nếu không cải cách thì đất nước sẽ trì trệ, bất bình sẽ gia tăng. Như chúng tôi đã nói rõ trong bài phân tích của mình rằng nếu không có sự thay đổi, tính chính danh của Đảng, của chính quyền sẽ được đánh dấu hỏi.

Chính vì vậy mà thời gian qua, có những tiếng nói cải cách rất mạnh mẽ thậm chí con đường đi cụ thể cũng đã được tuyên bố thành văn bản. Cản ngại hiện tại là sức ỳ bộ máy và sự chống đối của những người bị thua thiệt. Để thực thi được cải cách đòi hỏi sức mạnh của bộ máy và quyết tâm chính trị, cộng với một hình thức liên minh các lực lượng muốn thúc đẩy cải cách, mới có thể vượt qua được các lực chống đối.

_____0o0_____

PHẦN 2: CƠ MAY NÀY KHÔNG ĐỢI DÂN TỘC MÌNH LÂU!

Có vẻ như áp lực bên ngoài đang đặt VN trước sức ép cải cách. Nhưng cơ may này cũng sẽ không đợi dân tộc mình lâu. Nếu không xuất hiện những lực lượng cải cách, nếu thiếu những nhà lãnh đạo có kỹ năng, thiếu một xã hội có nền văn hóa đón nhận cải cách thì cơ hội cũng sẽ biến mất - PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa trăn trở.

VietNamNet giới thiệu phần 2 bàn tròn về cải cách thể chế với PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa, TS. Huỳnh Thế Du và Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyễn Xuân Thành. Đây là nhóm tác giả chính của báo cáo tư vấn chính sách mới đây cho Chính phủ VN về cải cách thể chế, được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa ĐH Harvard, Chương trình Phát triển Liên hiệp Quốc và Chính phủ VN.

Có hay không lực lượng cải cách ở VN?

Nhà báo Việt Lâm: Ông Nguyễn Xuân Thành có nhắc đến một cụm từ rất hay là "lực lượng cải cách". Trong một bàn tròn mới đây với VietNamNet, TS Nguyễn Đình Cung (Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương) có chia sẻ rằng ông cảm thấy những tiếng nói cải cách còn đơn độc quá, chưa được bắt lời một cách rộng rãi. Vậy thì nhận định về lực lượng cải cách có phải quá lạc quan hay không?

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa: Một câu hỏi mà báo cáo đặt ra và cũng được nhiều người bàn luận trong hội thảo sang nay là liệu đã tới thời khắc cải cách hay chưa? Nói cách khác, bối cảnh hiện nay đã ép các nhà hoạch định chính sách ở VN phải cải cách hay chưa?

Nếu cảm thấy sức ép và đánh giá sức ép đó nguy hại, đe dọa đến tính chính danh của chính quyền, của đảng cầm quyền thì người ta bắt đầu đánh giá những lựa chọn để tiến hành cải cách. Cách đánh giá và lựa chọn lại tuỳ thuộc vào hệ nhận thức về gía trị của từng người khác nhau. Để bảo vệ tính chính danh của chính quyền, có nhóm thì muốn VN cởi mở hơn, chấp nhận ngày càng rõ rệt hơn những chuẩn mực quốc tế. Ngược lại, có những nhóm đề cao những giá trị, ý thức hệ cũ của họ và theo nghĩa như vậy chống lại những sức ép cải cách mang tính hội nhập. Chúng tôi hiểu rằng có thể xuất hiện những lực lượng thúc đẩy cải cách, cũng có thể có những lực lượng chưa muốn cải cách diễn ra, hoặc diễn ra theo những cách khác nhau.

Ngoài ra, lựa chọn cải cách cũng rất khác nhau. Tôi nhớ anh Lê Minh Thông, Phó Ban thư ký Ban biên tập Hiến pháp 2013 cho biết trong khoảng 6-7 tháng thảo luận về dự thảo Hiến pháp 2013, VN đã tổ chức 28,000 cuộc hội thảo với khoảng 26 triệu ý kiến cử tri. Điều này cho thấy rằng đất nước đứng trước một vấn đề nhưng các lời giải rất đa dạng.

Vậy thì chọn lời giải nào thuyết phục người khác đây? Bản chất đó là cuộc thương lượng. Trong cuộc thảo luận về Hiến pháp, chúng ta chứng kiến sự giằng xé của nhiều ý kiến khác nhau, từ vấn đề kinh tế nhà nước có chủ đạo hay không, nhà nước nên đóng vai trò gì trong nền kinh tế...Hay kì Đại hội Đảng XI, chúng ta được chứng kiến cuộc thảo luận giữa ông Võ Hồng Phúc – Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư lúc bây giờ với ông Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh về vai trò chủ đạo của sở hữu công cộng. Những cuộc thảo luận như thế từ trong Đảng, lan ra xã hội, rơi vào nghị trường, phản ánh những lựa chọn khác nhau của các nhóm khác nhau.

Bản chất của cải cách thể chế là cho người dân có thêm tiếng nói, để họ được biết, được tham gia nhiều hay ít vào những cuộc thảo luận như thế. Một số sự vụ xảy ra thời gian qua cho thấy sự đã rồi dân mới được biết. Nói cách khác, nguy cơ có những chính sách tồi tệ sẽ ngày càng tăng khi tiếng nói của dân giảm đi.

Nói như thế không có nghĩa là tăng minh bạch và dân chủ thì những sai lầm sẽ ít đi bởi đã là con người thì đều có khiếm khuyết. Nhưng càng minh bạch, càng thảo luận công khai, quá trình thương lượng càng khó khăn, buộc anh phải thuyết phục bằng lý lẽ thì quá trình đó sẽ lọc dần đi những quyết định nóng vội, hoặc che dấu lợi ích đằng sau hoặc chưa có căn cứ. Toàn bộ quy trình tham gia của người dân không dễ dàng, thậm chí rắc rối nhưng nó giúp giảm bớt nguy cơ đưa ra những quyết định thiên lệch.

Lựa chọn tồn tại hay không tồn tại

TS. Huỳnh Thế Du: Tôi muốn tiếp ý của anh Phạm Duy Nghĩa về thời khắc cải cách. Thực ra, các cải cách, thay đổi về cách tiếp cận, về ý thức hệ...chỉ xảy ra với một chế độ, một nhà nước nào đó khi đứng trước lựa chọn sống hay chết, tồn tại hay không tồn tại.

Trở lại câu chuyện cải cách năm 1986. Sự sụp đổ của một loạt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu và khủng hoảng toàn diện trong nước đặt Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước nguy cơ sống còn. Khi đó, Đổi Mới 1 đã xảy ra.

Hiện nay, nếu nhìn ở khía cạnh kinh tế, chúng ta có thể nghĩ rằng tuy tốc độ tăng trưởng 5-6% thấp hơn kỳ vọng 7-8% giai đoạn trước nhưng vẫn ổn. Nếu chỉ nhìn từ khía cạnh đơn giản này thì áp lực không có. Nhưng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, với sự kiện Giàn khoan 981 mà tôi cho rằng có ý nghĩa quyết định, áp lực đó đã hiển hiện. Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy khi cảm quan về sự tồn vong của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được đánh thức thì lúc đó người dân tự động có yêu cầu chính đáng làm sao phải có cải cách, có chính sách sáng suốt bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Nếu nhìn từ góc độ này thì Đảng và Nhà nước đang đứng trước một thách thức lớn là làm sao để người dân thấy rõ đường lối phát triển, bảo vệ chủ quyền của mình. Quan điểm cá nhân tôi cho rằng, bây giờ là thời điểm nước sôi lửa bỏng rồi.

Trở lại câu hỏi về lực lượng cải cách, chúng ta thấy đã có nhiều tiếng nói cải cách ở cả ba khu vực: khu vực công, khu vực doanh nghiệp và khu vực dân sự. Trong rất nhiều cuộc hội thảo không mở rộng, chúng tôi đã được nghe những tiếng nói cải cách từ khu vực công, tức là những mầm ấy, lực lượng ấy bắt đầu lớn lên rồi. Trong khu vực dân sự, qua câu chuyện về chặt cây xanh ở Hà Nội, xây Văn Miếu ở Vĩnh Phúc hay dự án lấp sông ở Đồng Nai cho thấy tiếng nói của người dân ngày càng mạnh mẽ hơn. Người ta biết cách tổ chức như thế nào để tạo áp lực buộc chính quyền phải điều chỉnh hành vi. Trong khu vực doanh nghiệp, rất nhiều DN chỉ mong mỏi có môi trường kinh doanh thực sự tốt để người ta tạo ra giá trị, chứ không phải chỉ để trục lợi.

Bởi vậy, tôi tin rằng, nếu có một quyết sách đúng đắn thì những mầm cải cách sẽ gắn kết với nhau.

Nguy cơ quyền lực rơi vào tay thiểu số

Việt Lâm: Kể từ khi Đổi mới đến nay, những thời cơ cải cách đúng là đã xuất hiện. Vấn đề là ngay thời điểm đó, quyết tâm cải cách là có, thậm chí không kém phần mạnh mẽ nhưng sau đó không hiểu vì lý do gì mà nó nguội dần đi, không biến được thành hành động, kết quả thực tế. Có những ý kiến cho rằng giá như trong 30 năm đổi mới vừa qua, những cơ hội đó được tận dụng thì có lẽ vị thế phát triển của VN giờ đã khác. Có thể rút ra được bài học nào từ những thời cơ bị bỏ lỡ như thế không?

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa: Xét trên lý thuyết, khi anh không phát triển được thì quyền lực sẽ rơi vào tay thiểu số, nhóm đầu sỏ hay giai tầng nhỏ bé trong xã hội nhưng khống chế toàn bộ tài nguyên, làm méo mó phân bổ lợi ích quốc gia. Những thể chế đó được gọi là thể chế khai thác, tức là mang tính khai thác bóc lột. Những thế chế như vậy tồn tại rất nhiều ở các nhà nước độc tài chuyên chế, bóc lột. Sau khi đã tạo ra một giai tầng nhà nước có tính bóc lột thì nó sẽ có sức kháng cự lâu dài, theo một nghĩa tạo ra những thể chế ép dần lập pháp, tư pháp, báo chí tuân theo những lợi ích của nó.

Mới đây, ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TƯ cũng có viết nhiều bài về nhóm lợi ích, cảnh báo nếu VN bị rơi vào bẫy của thể chế khai thác thì thể chế khai thác sẽ ngày càng bền chặt, ngày càng kéo quốc gia đi xuống. Khi đó khó lòng Việt Nam vượt lên được ngưỡng như Hàn Quốc và Đài Loan đã đạt được.

Khó mà định nghĩa được sức ép đó thể hiện như thế nào nhưng cơ may để cải cách cũng không đợi dân tộc lâu. Nếu mình không tận dụng được, nếu không xuất hiện những lực lượng cải cách trong xã hội, thiếu những nhà lãnh đạo có kỹ năng, thiếu một xã hội có nền văn hóa đón nhận cải cách như vậy thì cơ hội cũng sẽ biến mất.

Liệu Việt Nam có đón được thời cơ cải cách này hay không cũng rất khó nói, không thể chỉ dựa vào cảm tính được mà phải phân tích kỹ hơn bối cảnh lịch sử, văn hoá và thể chế. Lấy ví dụ nhiều người vẫn ca ngợi Nguyễn Trường Tộ là nhà cải cách sớm, thậm chí sớm hơn nhiều nhà cải cách bên Nhật Bản và vẫn tiếc cho Nhà Nguyễn thiếu những nhà lãnh đạo đón nhận cải cách đó. Nhưng ở góc nhìn lớn hơn nữa, liệu xã hội Việt Nam thời đó đã đủ trưởng thành để đón cải cách như vậy chưa.

Hiện tại, có vẻ như áp lực bên ngoài đang đặt Việt Nam dưới một sức ép cải cách nhưng liệu dân tộc Việt Nam đã đủ trưởng thành để đón những cuộc cải cách rộng lớn hơn chưa? Điều đó cần nghiên cứu kỹ mới trả lời được.

Việt Nam rất giỏi trong việc làm vừa đủ

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Nếu nhìn về mặt lịch sử, Việt Nam rất thành công trong việc đối phó với thách thức trước mắt và cũng rất giỏi trong việc làm vừa đủ để vượt qua thách thức trước mắt và dừng lại ở đó, vẫn duy trì được những thể chế giúp mình tồn tại đến nay và thay đổi một chút để đối phó thách thức.

Đáng lẽ ra trong quán tính của việc vượt qua khủng hoảng, thách thức trước mắt, anh có thể nhân cơ hội đó mà tiến thêm một bước nữa. Bởi vì trong bối cảnh ấy, anh có thể huy động sự ủng hộ rộng rãi trong xã hội mà bình thường anh không làm được. Nó đòi hỏi anh thực hiện thêm một bước nữa để tạo ra những thay đổi và sau đó tạo thêm động lực để tiếp tục chuyển đổi lên nấc cao hơn nữa.

Về mặt lịch sử, đây là một điều đáng tiếc của Việt Nam. Thông thường khi vượt qua được khủng hoảng, thách thức trước mắt, chúng ta đã coi là thành công và muốn dừng lại một chút, chứ không muốn thay đổi mạnh mẽ. Câu cửa miệng chúng ta hay nói với nhau là phải có sự kế thừa, duy trì những gì đã có. Một thời gian sau, bức xúc lại xuất hiện và chúng ta lại quay lại quy trình ấy.

Thực ra, trong lịch sử chỉ có một số ít quốc gia thực hiện chuyển đổi thành công. Có nhiều nước còn không huy động được tài năng, sức mạnh của dân tộc để vượt qua thách thức trước mắt và bị sụp đổ. Xét theo khía cạnh này, Việt Nam đã làm vừa đủ để vượt qua được thách thức.

Chúng tôi đánh giá đây là thời khắc để Việt Nam cải cách thể chế. Nhưng cũng như những thời khắc trong quá khứ, tôi tin là Việt Nam sẽ vẫn vượt qua được khó khan trước mắt. Nhưng liệu có những chuyển đổi sâu rộng để trở thành một quốc gia phát triển trong vòng 20-30 năm nữa hay không thì tôi chưa dám nhận định.

Giấc mơ kiến trúc sư trưởng cải cách

Việt Lâm: Như ông Thành vừa phân tích, có lẽ tâm thế thận trọng, đặc tính giỏi xoay sở với tình thế nhưng khó đi được đường dài của người Việt đã phần nào hạn chế tầm nhìn cải cách. Nó cũng quy định hai quỹ đạo cải cách. Nếu như cải cách ở Trung Quốc là cải cách áp đặt từ trên xuống thì Đổi mới của Việt Nam lại bắt đầu từ những cuộc phá rào ở địa phương. Bài học thành công của Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore...là có một kiến trúc sư trưởng dẫn dắt cải cách thành công. Liệu lần này chúng ta có thể hi vọng quỹ đạo cải cách của VN sẽ thay đổi theo hướng đó hay không?

PGS. TS Phạm Duy Nghĩa: Tôi e rằng hi vọng xuất hiện một kiến trúc sư trưởng đủ tầm dẫn dắt dân tộc là một mơ ước tương đối hoang tưởng. Bởi vì một nhân vật như thế chỉ có thể xuất hiện ở những dân tộc có nền học thuật, có những cuộc tranh luận giữa giới trí thức rất dữ dội, mới tóe ra những triết lý cải cách; chỉ có được trong những xã hội cónền học vấn, có văn hóa tranh luận dám chấp nhận cái lạ cái mới; chỉ xuất hiện trong những chế độ, xã hội có tính cai trị tập trung, nhất quán; trong những quốc gia mà quyền uy áp đặt từ trên xuống dưới trở thành một thói quen lịch sử.

Theo các nhà văn hoá Kim Định, Trần Ngọc Thêm...người Trung Hoa và những nước phương Bắc là dân du mục sống trên đồng cỏ, có tầm nhìn phóng khoáng, có kỷ cương. Họ dùng lưỡi gươm và quyền uy để thiết lập đế quốc của họ. Ngay từ 2000 năm trước, Tần Thuỷ Hoàng thiết lập nên đế chế Trung Hoa với bộ máy cai trị từ trên xuống dưới, với quận huyện được cấu thành như những mắt xích của TW. Thiết chế này đã là truyền thống của nước Trung Hoa, cứ thế nới rộng ra thôi.

Ngược lại, ở Việt Nam, cộng đồng làng xã hình thành từ những hàng vạn tiểu quốc con con, mỗi làng xã có luật lệ riêng. Người Trung Hoa có chữ Hán, thể hiện tư duy bằng chữ viết, còn chúng ta không có chữ viết riêng, truyền lại tư duy cho con cháu qua lối truyền khẩu là chính.

Điều đáng nói là với nền móng văn hoá của một xứ sở chưa từng có một chính quyền TƯ quyền uy, trấn áp một cách thống nhất, rạch ròi từ trên xuống dưới, rất khó để tạo ra những kiến trúc sư xuất chúng, có tầm nhìn, có sức mạnh phi thường tạo ra kỷ cương ép những tiểu vương kia phải tuân thủ. Về cơ bản, nước mình vẫn là nước phân quyền tương đối hài hòa giữa TW và địa phương. Trong lịch sử cũng vậy. Quyền uy của nhà vua thời phong kiến thực ra chỉ xuống đến ông quan huyện. Xã, lý trưởng, chánh tổng và tuần phủ sống bằng đóng góp của dân làng, trong dân làng đó họ tạo ra một chính quyền tự quản. Thậm chí mãi đến năm 90, cán bộ phường xã của mình mới trở thành công chức chứ trước đó công chức của mình không bao gồm cán bộ cấp xã.

Với đặc trưng phân tán và tự trị như vậy, nên hệ luỵ cho đến bây giờ là chúng ta có 500 trường đại học nhưng không thể có một trường đại học đẳng cấp quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc cũng khó khăn như ta nhưng chỉ trong vài chục năm, Đại học Thanh Hoa, Đại học Nhân dân của họ đã vươn lên đẳng cấp thế giới. Chúng ta đầu tư nhiều nhưng không có cái nào ra tấm ra món.

Các Mác có nói một câu rất hay rằng: Không có bánh mì, không có triết học. Khi một xã hội đói kém, tích lũy tư bản không được bao nhiêu. Nếu đời cha giàu đến đời thứ hai chia cho các con đã nhỏ đi rồi, các cháu tranh nhau nữa càng teo lại. Cứ như vậy các miếng đất Việt Nam không hình thành được điền thổ lớn, con cháu mỗi người một mẩu như thế, khiến cho tích lũy về trí tuệ, về tầm nhìn hơi vụn vặt. Nói cách khác, tầm nhìn của chúng ta bị giới hạn bởi thôi thúc về dạ dày của chúng ta.

Chắc nhiều người cũng mơ như chị, nhưng tôi hoài nghi rằng trong bối cảnh dân tộc như thế có thể xuất hiện những nhà cải cách đặt ra đường ray cho dân tộc tiến thẳng lên câu lạc bộ của 30 nước giàu có.

Đảng giữ vai trò trung tâm

Việt Lâm: Vậy thì thay vì đặt cược vào một giấc mơ ít khả thi như thế, liệu có cách nào bớt rủi ro, bớt ăn may hơn không?

TS. Huỳnh Thế Du: Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi muốn nói thêm một chút về đề tài kiến trúc sư trưởng cho cải cách. Mọi người hay lấy Park Chung-hee của Hàn Quốc, Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc, Lý Quang Diệu của Singapore, hay Thiên Hoàng Minh Trị của Nhật Bản làm dẫn chứng thành công. Trong khi trên thực tế, cả khu vực Trung Đông, Châu Mỹ - La Tinh, Châu Phi đã có những thời điểm có những nhà lãnh đạo mấy chục năm dưới chế độ có quyền lực gần như tuyệt đối, nhưng hầu hết các nước này vẫn rơi vào tình trạng mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình hoặc là mãi không phát triển được. Nếu chúng ta đặt cược vào một cá nhân thì rủi ro sẽ nhiều hơn khả năng thành công. Lịch sử đã chứng minh như vậy.

Cách đây mấy tháng, ông Tony Blair, cựu Thủ tướng Anh có nói: "Nếu cải cách nào mà không có phản đối thì không phải là cải cách". Sự thực cải cách là một quá trình cực kỳ đau đớn. Một số người sẽ mất đi quyền lợi, nhưng số đông phải được hưởng lợi. Anh Thành có nhắc đến cuốn "Vì sao các quốc gia thất bại?". Ở đây, thể chế bao trùm hay dung hợp đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Khi chúng ta nhìn tất cả các nước đã phát triển thì vai trò của một cá nhân chỉ ở một mức độ nào đó, nhưng nghị trình phát triển phải có sự tham gia của đông đảo từ tầng lớp tinh hoa đến người dân thường.

Trở lại câu chuyện của Việt Nam hiện nay, vấn đề mấu chốt phải được đề cập đến là vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải đóng vai trò trung tâm, đứng ra tập hợp được tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia vào tiến trình cải cách, giống như Đảng đã tập hợp được đông đảo lực lượng giành chính quyền năm 1945. Muốn thế, Đảng cần tạo ra một môi trường cởi mở để tất cả người dân có thể tham gia và làm sao để các mầm cải cách, mầm tiến bộ càng ngày càng được nuôi dưỡng.

Chúng tôi có làm một nghiên cứu và thấy rằng trong lịch sử, các mầm cải cách của VN hay bị thui chột. Thời phong kiến, Phố Hiến, Hội An là những mầm phát triển kinh tế cực kỳ tốt nhưng cuối cùng bị coi là ngoại lai, bị bóp nghẹt.

Những mầm cải cách gần đây như hiện tượng Bình Dương, hiện tượng khu Nam Sài Gòn đã từng tạo ra hiệu ứng phát triển tốt cũng đang dần yếu đi.

Bởi vậy, câu chuyện hiện nay là làm sao Đảng có chính sách huy động sự tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là tầng lớp tinh hoa vào công cuộc cải cách. Như anh Phạm Duy Nghĩa vừa nói, trước tiên phải để mọi người cãi nhau toé lửa ra đã. Khi cãi nhau toé lửa ra thì các ý tưởng hay ho mới hình thành, mới va chạm, từ đó may ra chúng ta tìm được đường lối phát triển phù hợp. Cần có một cơ chế để tất cả 90 triệu người Việt Nam cùng nghĩ, cùng tìm hướng phát triển cho Việt Nam chứ không phải câu chuyện của 3-4 triệu hay một số ít người nào đó.

_____0o0_____

PHẦN CUỐI: LÁ PHIẾU CỬ TRI CHÍNH LÀ SỰ TRỪNG PHẠT HỮU HIỆU

VietNamNet giới thiệu kỳ cuối bàn tròn về cải cách thể chế với nhóm tác giả của báo cáo tư vấn chính sách, được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa ĐH Harvard, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc và Chính phủ Việt Nam.

Chuyên nghiệp hóa Quốc hội

Nhà báo Việt Lâm: Như những gì các khách mời vừa phân tích thì có vẻ như một cuộc cải cách sâu rộng chưa khả thi ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại. Nếu theo mô thức chúng ta hay đi thì thường cải cách sẽ bắt đầu bằng những giải pháp kỹ thuật, những bước đi nhỏ. Theo các chuyên gia, những bước cải cách nhỏ, có thể làm ngay hiện nay là gì?

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Tôi không muốn gọi cải cách lớn hay nhỏ, bởi mọi cải cách đều lớn. Nếu một cải cách không tạo ra tác động nào thì sẽ là vô hiệu. Một cải cách chúng ta tưởng là nhỏ, nhưng nếu tạo rat hay đổi đáng kể, theo hướng tích cực thì không thể gọi là nhỏ.

Như chúng tôi đã đề cập trong bài phân tích chính sách vừa rồi, sức ép cải cách là có, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng đều cảm nhận được sức ép cải cách đó, thậm chí giải pháp để cải cách cũng đều đã được các nhà lãnh đạo đưa ra rất đầy đủ rồi. Vấn đề là đang tồn tại những rào cản thể chế khiến cho những giải pháp ấy dù đã được tuyên bố, thậm chí đưa thành văn bản nhưng vẫn không chưa thực thi được trên thực tế.

Theo chúng tôi nhìn nhận, để triển khai được các giải pháp kỹ thuật về kinh tế - xã hội, giờ là lúc thực hiện những cải cách thể chế về mặt lập pháp và tư pháp, để kiến tạo một cơ chế giám sát hiệu quả hơn, giúp cho các nhà làm chính sách, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải trình rõ ràng. Anh Phạm Duy Nghĩa sẽ trình bày cụ thể về các giải pháp này.

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa: Đúng là cải cách thể chế đã được bàn thảo mấy năm nay rồi nhưng đến giờ không thể tiếp tục nói chung chung được nữa. Thực ra chưa cần nói đâu xa, chỉ cần làm sao thực thi được Hiến pháp 2013 đã rất tiến bộ rồi. Chẳng hạn, Hiến pháp 2013 đã vạch ra định hướng là các nhánh quyền lực hành pháp, lập pháp và tư pháp phải có sự phân công, phân nhiệm và kiểm soát lẫn nhau. Nói cách khác, Quốc hội và các cơ quan dân cử phải tổ chức hợp lý để làm đúng việc của mình.

Đối với cơ quan dân cử, chúng tôi có vài đề xuất cụ thể. Đề xuất thứ nhất là chuyên nghiệp hoá hoạt động của Quốc hội. Muốn vậy, đại biểu Quốc hội phải hoạt động toàn thời gian, coi đại biểu là một nghề chứ không nên kiêm nhiệm quá nhiều vai như hiện nay. Số đại biểu quốc hội cũng không nên quá đông, lên đến 500 người như hiện nay mà chỉ cần 200-300 người là đủ. Cả nước chia thành 2-300 đơn vị bầu cử, mỗi đơn vị chọn lấy một người. Người này phải có văn phòng ở đơn vị bầu cử, có nhân viên phục vụ và có văn phòng ở TƯ. Bằng cách đó, chúng ta học hỏi dần các thể chế dân cử nước ngoài. Dân biểu được bầu có chân rết ở đơn vị cử tri, có văn phòng và bộ máy giúp việc để giúp họ có thông tin, có kiến thức để tham gia thảo luận hiệu quả hơn.

Thứ hai, đại biểu phải làm việc ở cấp uỷ ban. Hiện tại, các cuộc thảo luận rộng tại hội trường, với hơn 500 đại biểu, mỗi người được nói 7-8 phút nên bị loãng. Ví dụ, cuộc thảo luận về quy hoạch phải diễn ra ở uỷ ban chuyên về quy hoạch, thảo luận về đầu tư công phải diễn ra ở các uỷ ban chuyên về tài chính...Có như vậy, Quốc hội mới chuyên nghiệp hoá được.

Thứ ba, áp dụng quy trình nghị viện, tức là mỗi ông đại biểu phải đại diện cho cử tri của mình. Để bảo vệ lợi ích cử tri của mình thì ông phải thương thảo với các ông khác. Ví dụ như Đại biểu Dương Trung Quốc nói muốn có một nghị quyết về Biển Đông. Đấy là ý kiến của ông nhưng nếu mỗi đại biểu đều đề xuất một nghị quyết thì làm sao xuể. Các ông phải thương lượng với nhau theo quy trình nghị viện, tức là bao nhiêu ý kiến thì được phép đưa ra một yêu cầu và Quốc Hội phải có những yêu cầu chặt chẽ để quy trình đó được đưa vào chương trình nghị sự.

Ngoài ra, có những ý kiến cho rằng đã là nghề thì đại biểu cũng phải được trả lương đầy đủ để sống được và có kinh phí làm việc. Tôi nghĩ nếu nước mình đánh giá đúng vai trò thực sự của Quốc hội, có một khoản tài chính rõ rang thì từ đó sẽ định ra được bao nhiêu đại biểu hoạt động chuyên nghiệp và trả lương tử tế cho họ.

Đề xuất thứ hai là tăng tính minh bạch trong hoạt động của Quốc hội. Những cuộc tranh luận, phiên điều trần trong ủy ban có thể công khai cho báo chí tham gia, có thể ghi âm ghi hình và lưu trữ trong các trang web của ủy ban để ai cũng có thể tra cứu. Ví dụ cuộc thảo luận về sân bay Long Thành, tôi có thể truy cập và biết ai đã ủng hộ, lập luận như thế nào, người nào không bỏ phiếu. Tức là những thứ đó phải được lưu trữ và tạo điều kiện cho dân biết thì dân mới bàn được, từ đó mới có hiệu ứng ngược lại thúc ép đại biểu có trách nhiệm đối với hành vi của mình. Ví dụ như vừa rồi tranh cãi xung quanh điều 60 của Luật Bảo hiểm Xã hội, khi họp cử tri nhiều người phàn nàn: đại biểu bây giờ đại diện cho ai, chứ không đại diện cho chúng em. Chúng em 80% muốn hưởng lương hưu một lần nhưng các bác bắt em phải đến 60 tuổi mới được lĩnh. Như vậy đại biểu có quyền nhưng cũng phải có nghĩa vụ.

Trên đây là những biện pháp có thể làm được trong khuôn khổ Hiến pháp 2013. Nếu tầm nhìn xa hơn nữa là làm sao người dân có quyền tham gia tích cực hơn nữa việc bày tỏ ý chí chính trị, tiến cử, hay thúc ép lựa chọn những ứng viên, để rồi sau này ứng viên tốt mới bầu được đại biểu tốt. Để làm được điều đó đòi hỏi những giá trị khác trong ý thức hệ và tổ chức quyền lực mà những chuyện này không thể một sớm một chiều.

Lá phiếu cử tri chính là sự trừng phạt hữu hiệu nhất!

Việt Lâm: Nhân nói về chuyện trách nhiệm giải trình của đại biểu Quốc hội, ngành hành pháp đã có những sáng kiến rất cụ thể để đo lường hiệu quả làm việc của công chức. Liệu đối với đại biểu quốc hội, có thể có những bộ tiêu chí gì để họ thực sự đại diện cho tiếng nói cử tri?

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa: Về sâu xa, sự trừng phạt giống như anh Nguyễn Xuân Thành nói chính là lá phiếu của cử tri. Tôi bầu ra đại biểu mà suốt ngày không phát biểu gì hoặc là phát biểu lộn xộn quá hoặc những hành vi trái khoáy như nói xấu đại biểu khác, thì kỳ sau anh sẽ không được bầu nữa.

Cũng như vậy, người ta có thể có những quy trình để bắt anh chịu trách nhiệm trước đơn vị bầu cử. Xác lập trách nhiệm này chủ yếu thông qua trách nhiệm về chính trị chứ không phải trách nhiệm về pháp lý. Nếu anh không làm tốt cho người bầu ra anh thì bằng lá phiếu tôi thay anh bằng người khác. Nói cách khác, người dân phải có tiếng nói tốt hơn trong việc đưa ra ứng viên. Nếu chỉ đi bầu những ứng viên có sẵn rồi thì quyền lựa chọn của người ta trên thực tế bị hạn chế.

Việt Lâm: Vấn đề là nếu như đại biểu quốc hội chưa phải là một nghề, thì những đại biểu quốc hội có làm không tốt cũng không sợ bị áp lực bởi sau nhiệm kỳ này chắc gì họ còn tiếp tục làm đại biểu nữa.

TS. Huỳnh Thế Du: Tôi nghĩ rằng mấu chốt vấn đề là làm sao xây dựng được cơ chế cạnh tranh, giám sát. Điều lệ Đảng đã cho phép, Hiến pháp cũng đã đề cập đến chuyện cạnh tranh lành mạnh các vị trí trong bộ máy. Cạnh tranh không phải một lần mà cạnh tranh phải tạo ra cơ chế là anh luôn luôn có nguy cơ bị thay thế, bị mất việc nếu làm không tốt. Cạnh tranh và minh bạch sẽ góp phần giải quyết được câu chuyện trách nhiệm rõ ràng.

Cốt lõi suy cho cùng vẫn là động cơ lợi ích. Tôi hành động vì cái ghế của tôi. Ai quyết định cái ghế của tôi thì tôi hành động như thế. Nếu không giải quyết được điểm chốt này thì mọi chuyện vẫn sẽ bế tắc.

Cải cách tư pháp: tòa án phán xử độc lập

Việt Lâm: Các khách mời đã nêu rất cụ thể những giải pháp có thể làm ngay để cải cách lập pháp. Nhiều chuyên gia nhận xét thời gian qua, ngành hành pháp bắt đầu có những bước cải cách mạnh mẽ, áp đặt trách nhiệm cụ thể. Ngành lập pháp cũng đã rục rịch chuyển động. Chỉ riêng tư pháp, như nhận định của chính những người trong ngành là vẫn còn nhiều yếu kém. Tâm điểm của các diễn đàn Quốc hội thời gian qua là vấn đề án oan sai. Là một chuyên gia luật, ông Phạm Duy Nghĩa nghĩ sao về câu chuyện cải cách tư pháp thời điểm này?

PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa: Để làm ăn, buôn bán người ta cần phải có một luật chơi rõ ràng. Nợ thì phải trả. Phá sản thì phải có chủ nợ đến chia tài sản. Sống phải được đảm bảo an ninh từ thân thể đến tính mạng. Pháp ở đây không phải là văn bản, quy định hay thông tư mà có nghĩa là công bằng trong xã hội, là những giá trị công lý mà người dân gửi gắm vào một cơ quan nào đó giữ gìn. Tư ở đây có nghĩa là chăm sóc, bảo vệ. Như vậy, sứ mệnh của tư pháp là gìn giữ công lý để những người dân thấp cổ bé họng, như đứa học trò non nớt không bị sợ hãi trước quyền uy công cộng hay sự đánh đập của xã hội đen, to hơn nữa như người ta kinh doanh thì phải có luật pháp bảo vệ tài sản người ta, khi ký hợp đồng mà không trả nợ thì lực lượng nhà nước hỗ trợ người ta đòi được nợ đó. Đối với người vỡ nợ như bà Bảy Hiền của Bình An Fish chẳng hạn thì phải có một cơ chế để tránh chủ nợ đến xâu xé, có thể tái cấu trúc một cách ổn thỏa. Đấy chính là luật pháp.

Chính vì môi trường pháp lý còn nhiều rủi ro như vậy nên thành ra doanh nghiệp Việt Nam không lớn lên được. Ngoại trừ những doanh nghiệp có quan hệ thân hữu với chính quyền, số còn lại ở quy mô rất bé, thậm chí đã lớn vừa vừa còn bé trở lại bởi rủi ro về mặt pháp lý.

Cải cách về mặt tư pháp không chỉ là thực hiện những điều tốt đẹp trong chương 2 của Hiến pháp về nhân quyền và quyền công dân mà nó còn vì mục tiêu thực dụng hơn là làm cho môi trường kinh doanh Việt Nam đáng tin cậy hơn, người ta vào đây làm ăn an toàn hơn, tự tin nới rộng quy mô kinh doanh. Thời gian qua, rất nhiều đại gia của Việt Nam đã bán lại vốn cho nhà đầu tư nước ngoài không hoàn toàn vì họ bị thôn tính. Khi đạt đến ngưỡng tài sản nào đó, họ cảm thấy không an toàn. Vì vậy bán lại không phải là lựa chọn tồi nếu thể chế pháp lý khiến người ta e ngại nếu làm ăn lớn hơn nữa có thể biến mình thành miếng mồi.

Ý thứ hai tôi muốn nhấn mạnh ở đây là không cần sáng tạo gì thêm nữa về cải cách tư pháp. Những tuyên bố, đường hướng về cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước trong thời gian qua, nếu tập hợp lại đã đủ thành một chương trình cải cách quá đầy đủ rồi, từ nghị quyết 49 của TƯ Đảng về cải cách tư pháp, rồi đến kết luận số 08. Vấn đề bây giờ là từng bước thực hiện các tuyên bố này. Ví dụ, chức năng của toà án là bảo vệ công lý, công bằng, bảo vệ nhân quyền và phán xử độc lập. Người dân có quyền tiệm cận công lý bằng cách nếu tôi bị bắt thì phải có luật sư bào chữa. Luật sư phải được tham gia ngay từ đầu chứ không phải có hồ sơ, có cáo buộc rồi mới mời họ vào. Người dân phải được quyền kháng cáo lên những tòa mà họ tin rằng không bị lệ thuộc vào chính quyền địa phương. Thẩm phán cũng phải có lương bổng, được đào tạo, có nhiệm kỳ đủ để cho họ trở thành những người dũng cảm bảo vệ công lý, đỡ bị sợ sệt bởi những thế lực từ chính quyền hay từ giới có tiền bạc.

Nếu làm được những điều mà nhà nước đã cam kết thì thực sự là bước cải cách lớn. Hiện nay, dường như chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của tòa án, của tư pháp trong việc bảo đảm niềm tin cho người kinh doanh và người dân. Vì nhận thức chính trị không rõ như vậy nên mới để các thế lực phân tán dần ra, những cam kết cải cách mờ nhạt dần đi. Ban đầu, chúng ta khẳng định sẽ phát triển Viện Kiểm sát thành Công tố, giống như ở các nước phát triển, trở thành một bộ phận trong tư pháp. Khi ra toà, công tố chỉ là một bên, chứ không thể ngồi ngang hang với toà, vừa tố anh bị cáo, lại vừa kiểm soát ông thẩm phán cạnh mình. Một cơ chế như vậy không còn phù hợp nữa khi mà người dân ngày càng đòi hỏi thẩm phán đưa ra phán quyết phản ánh những mong đợi về công bằng xã hội.

Nếu không thực hiện những gì đã cam kết thì ngọn lửa cải cách sẽ yếu dần đi.

Hệ thống chính trị mở

Việt Lâm: Vậy làm thế nào để nuôi dưỡng ngọn lửa cải cách đó, làm thế nào để những mầm cải cách không thui chột đi?

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Xã hội Việt Nam đang phát triển theo hướng một xã hội mở và những người làm nghiên cứu như chúng tôi là một bộ phận của xã hội mở ấy. Những tuyên bố vừa qua của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam cũng khẳng định không thể đảo ngược được tiến trình mở cửa đó.

Tôi tin rằng những ngọn lửa cải cách sẽ tiếp tục nếu chúng ta vẫn duy trì một xã hội mở, vẫn có những phản biện xã hội, những sức ép, những kiến nghị đề xuất để tiếp tục cải cách.

Nhưng một nền kinh tế mở và xã hội mở có lẽ là chưa đủ để biến những kiến nghị, đề xuất về cải cách được triển khai trở thành hiện thực. Hệ thống chính trị cũng cần cởi mở hơn ở mức độ nào đó để tiếp nhận được những gì xảy ra trong nền kinh tế, trong xã hội, để có phản ứng kịp thời, có điều chỉnh đúng lúc. Bởi nếu không, chúng ta sẽ không thể có đủ quyết tâm chính trị để thực hiện cải cách.

Như anh Nghĩa đã phân tích, mọi đường hướng, giải pháp cải cách đã có sẵn rồi, đã được những người nắm giữ trọng trách trong bộ máy nêu ra đầy đủ rồi. Vấn đề bây giờ là phải biến nó thành hành động thôi. Một nền chính trị mở hơn như anh Du nói sẽ cho phép các bộ phận khác nhau trong hệ thống chính trị của chúng ta là những lực lượng tiến bộ nhất, muốn cải cách nhất để đưa đất nước phát triển có thể liên kết với nhau đủ mạnh để khắc chế lực cản từ những nhóm bị thua thiệt bởi cải cách.

- Xin cảm ơn các vị khách mời!

Những bài viết liên quan

Trang web này sử dụng cookies để cung cấp trải nghiệm người dùng tốt hơn.

Các cookies cần thiết (Essential Cookies) được mặc định và là cơ sở để trang web hoạt động chính xác. Cookies phân tích (Analytics cookies) thu thập dữ liệu ẩn danh để cải thiện và theo dõi website. Cookies hiệu suất (Performance cookies) được sử dụng bởi bên thứ ba để tối ưu hóa các ứng dụng (như video và bản đồ) được tích hợp trong trang web của chúng tôi. Để chấp nhận tất cả cookies, vui lòng bấm vào 'Tôi chấp nhận.'